Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

Handbook of Thermoplastic Elastomers


Sách này của nhà xuất bản William Andrew, được viết bởi tác giả Jiri George Drobny. Sách được xuất bản vào năm 2007, dày 404 trang.
Mục đích chính của sách là biên soạn tất cả kiến thức về thành phần hóa học, gia công, các tính chất cơ học và vật lý cũng như những ứng dụng của vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo (TPEs).
Phần giới thiệu (chương 1) đề cập các lý thuyết chung cho tất cả vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo, như nguyên lý của tính đàn hồi cao su, cấu trúc pha, nhiệt động lực học của sự phân pha trong block copolymer, các phương pháp tổng hợp, phân loại vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo, ưu và khuyết điểm của loại vật liệu này so với các loại cao su truyền thống. Tiếp theo, chương 2 và 3 lần lượt mô tả ngắn gọn lịch sử phát triển TPEs và các phụ gia được sử dụng cho TPEs.
Sự xem xét toàn diện các phương pháp gia công chung cho tất cả vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo được giới thiệu trong chương 4. Ngoài ra, chương này cũng giới thiệu nhiều tài liệu tham khảo sẵn có cho việc gia công riêng cho từng loại vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo.
Vì có rất nhiều loại vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo khác nhau về thành phần hóa học nên mỗi nhóm TPEs được giới thiệu trong từng chương riêng biệt (chương 5 – 14), chủ yếu về sản xuất công nghiệp, tính chất, phương pháp và điều kiện gia công. Các ứng dụng của chúng được giới thiệu riêng trong chương 15. Trong khi hai chương cuối 16 và 17 lần lượt đề cập đến vấn đề tái sinh TPEs và các phát triển gần đây.
Sách này là một tài liệu tham khảo tốt để học hỏi các kiến thức cơ bản, cập nhật các thông tin mới về các quá trình polyme hóa, gia công, sản xuất chi tiết vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo. Sách cũng là tài liệu học tập cho sinh viên ngành khoa học và kỹ thuật polymer, khoa học vật liệu.
Tham khảo từ tài liệu Handbook of Thermoplastic ElastomersJiri George Drobny, William Andrew, 2007, trang XVII
(vtp-vlab-caosuviet)
Cao su kỹ thuật - Đệm cao su máy thử nước
Cao su kỹ thuật - Đệm cao su máy thử nước
Vietrubber - Cao su đầu dập kicker
Vietrubber - Cao su đầu dập kicker

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012

Ảnh hưởng của thành phần monomer lên tính chất của fluoroelastomer

Đệm cao su tổng hợp làm kín
Đệm cao su tổng hợp làm kín
Loại fluoroelastomer được sử dụng nhiều nhất là các dipolymer của vinylidene fluoride (VDF) và hexafluoropropylene (HFP). Trong đó, thành phần VDF/HFP khoảng 60/40 phần trăm khối lượng (hoặc 78/22 % mol, 66% fluorine) là quan trọng nhất. Nó được cung cấp dưới nhiều dạng khác nhau để phù hợp cho những ứng dụng riêng biệt. Hàm lượng VDF cao hơn dẫn đến sự kết tinh đáng kể, trong khi mức VDF thấp hơn tạo nên nhiệt độ chuyển thủy tinh cao hơn nhiều, cả hai đều bất lợi cho tính uốn dẻo ở nhiệt độ thấp. Một cách khác để đạt tính kháng lưu chất cao mà không tác động xấu lên các đặc tính ở nhiệt độ thấp là sử dụng terpolymer của VDF và HFP với tetrafluoroethylen (TFE). Các terpolymer này có thể được tạo thành với thành phần VDF thấp (khoảng 30%) tương ứng với thành phần fluorine cao hơn (lên tới khoảng 71%), dẫn đến tính kháng lưu chất tốt hơn.
Một họ fluoroelastomer khác có các đặc tính ở nhiệt độ thấp tốt, dựa trên việc dùng perfluoro(methyl vinyl ether) (PMVE) thay thế cho HFP trong copolymer với VDF và TFE, đang được phát triển mạnh. Họ fluoroelastomer này được dùng ở khoảng nhiệt độ thấp hơn từ 10oC tới 20oC nhiệt độ có thể dùng với các polymer tương tự chứa HFP.
Perfluoroelastomer, copolymer của TFE với PMVE hoặc một perfluoro(alkoxyalkyl vinyl ether), có tính kháng rất tốt với hầu hết lưu chất. Với các hệ kết mạng thích hợp, vật liệu đàn hồi TFE/PMVE có tuổi thọ sử dụng dài ở nhiệt độ lên tới 300oC. Các chi tiết perfluoroelastomer được sử dụng trong các môi trường khắc nghiệt, nơi mà các vật liệu đàn hồi khác bị phá hủy.
Các copolymer của TFE và propylene có tính kháng với các lưu chất phân cực và bazơ, nhưng có tính trương nở cao trong hydrocarbon. Sự kết hợp thêm VDF cải thiện tính kháng dầu nhưng lại giảm đi tính kháng bazơ. Ethylene có thể được sử dụng thay thế VDF trong copolymer với TFE và PMVE để đạt tính kháng rất tốt với hầu hết dung môi và các lưu chất phân cực, bao gồm bazơ và các amine.
Tham khảo từ tài liệu Fluoroelastomers Handbook: The Definitive User's Guide and DatabookAlbert L. Moore, William Andrew, 2006, trang 13 – 15
(vtp-vlab-caosuviet)
Cao su kỹ thuật - Đệm cao su bánh in lon bia
Cao su kỹ thuật - Đệm cao su bánh in lon bia

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012

Tính chất của các monomer tạo thành fluoroelastomer

Ống cao su trục air shaft
Ống cao su trục air shaft
Fluoroelastomer là copolymer của các monomer khác nhau: vinylidene fluoride (VDF) CH2=CF2, tetrafluoroethylene (TFE) CF2=CF2, ethylene (E) CH2=CH2, hexafluoropropylene (HFP) CF2=CF-CF3, perfluoro(methyl vinyl ether) (PMVE) CF2=CF-O-CF3 và propylene (P) CH2=CH-CH3. Với số lượng monomer nhiều như vậy, ta có thể thay đổi thành phần monomer để đạt được sự kết hợp của các tính chất mong muốn, thông thường là tính kháng lưu chất, tính ổn định ở nhiệt độ cao, tính uốn dẻo ở nhiệt độ thấp, tính dễ gia công và kết mạng. Điều này cũng tương tự như trường hợp thay đổi thành phần acrylonitrile trong cao su nitrile: khi tăng thành phần acrylonitrile, tính kháng dầu tăng lên nhưng tính uốn dẻo ở nhiệt độ thấp giảm xuống và ngược lại khi giảm thành phần acrylonitrile.
Theo trên, ta thấy việc hiểu rõ tính chất và ảnh hưởng của từng monomer là rất quan trọng khi lựa chọn thành phần của fluoroelastomer phù hợp với từng ứng dụng riêng biệt. Trong đó, VDF, TFE và E tạo nên mạch chính không phân nhánh có khả năng kết tinh – rất cứng ở nhiệt độ thấp; vì thế kết hợp thêm HFP, PMVE và P để tạo cho mạch chính có các nhánh bên lớn, cản trở quá trình kết tinh để tạo thành vật liệu đàn hồi vô định hình. VDF và PMVE đóng góp cho vật liệu có nhiệt độ chuyển thủy tinh thấp, hay nói cách khác là tính uốn dẻo tốt ở nhiệt độ thấp. Về khả năng kháng dung môi, ngoài trừ E và P, tất cả fluoromonomer đều có tính kháng tốt với hydrocarbon. VDF là một phân tử phân cực, đặc biệt khi được kết hợp liền kề với perfluorinated monomer. Vì vậy, nó đóng góp cho sự trương nở của vật liệu khi tiếp xúc với các dung môi phân cực có khối lượng phân tử thấp và nhạy với sự tấn công của bazơ. E và P làm cho fluoroelastomer trương nở khi tiếp xúc với hydrocarbon, nhưng tăng tính kháng với các dung môi phân cực và bazơ.
Tham khảo từ tài liệu Fluoroelastomers Handbook: The Definitive User's Guide and DatabookAlbert L. Moore, William Andrew, 2006, trang 13 – 15
(vtp-vlab-caosuviet)

Cao su phụ tùng - Cụm thân bơm chịu mài mòn
Cao su phụ tùng - Cụm thân bơm chịu mài mòn

Xác định Tg theo tính phục hồi của vật liệu đàn hồi

Đệm cao su làm kín
Đệm cao su làm kín

Nhiệt độ chuyển thủy tinh và các tính chất của vật liệu đàn hồi trong vùng chuyển tiếp được xác định bằng phương pháp này dựa trên việc ghi lại sự thay đổi tỷ số giữa thành phần biến dạng thuận nghịch và không thuận nghịch. Tỷ số này phụ thuộc vào khả năng của mẫu thử nghiệm phục hồi lại kích thước của nó sau khi biến dạng.
Nếu một mẫu thử nghiệm chịu tải ở nhiệt độ TD trong vùng trạng thái giống cao su (ví dụ, ở nhiệt độ phòng), sau đó được làm lạnh xuống nhiệt độ T và được giữ ở nhiệt độ này trong khoảng thời gian t1, kích thước của mẫu thử nghiệm ở T sẽ phục hồi khi tải được lấy đi, các giá trị phục hồi được đo sau một thời gian cho trước t2. Khi nhiệt độ T giảm, vận tốc phục hồi sẽ xuống giá trị thấp nhất của chúng, tương ứng với Tg. Phương pháp này có thể được sử dụng cho cả kéo và nén. Với sự lựa chọn phương pháp và lắp đặt dụng cụ đo đúng, dãy dữ liệu đạt được từ phương pháp này không vượt quá 2%. Giá trị phục hồi khi chịu nén (thông số kháng nhiệt độ thấp khi chịu nén) là một trong các thông số được sử dụng rộng rãi ở Nga để đặc trưng các tính chất của vật liệu đàn hồi trong vùng chuyển tiếp.
Một dạng khác của phương pháp phục hồi là phương pháp co rút theo nhiệt độ (temperature retraction , TR). Phương pháp này bao gồm việc đo sự phục hồi của mẫu thử nghiệm khi mẫu được kéo giãn ở nhiệt độ phòng, sau đó được làm lạnh xuống nhiệt độ thấp hơn Tg, tiếp theo nhiệt độ của nó tăng lên ở một vận tốc cho trước. Trong trường hợp này, Tg phụ thuộc vào vận tốc thay đổi nhiệt độ. Trong phương pháp TR, người ta luôn chú ý các nhiệt độ tương ứng với độ phục hồi 2, 10, 50 hoặc 90%.
Theo nguyên tắc, Tg có thể được xác định bằng sự phụ thuộc vào nhiệt độ của bất kỳ tính chất cơ học nào, bao gồm độ cứng, độ bền và độ giãn dài tại điểm gãy.
Tham khảo từ tài liệu Low-Temperature Behaviour of ElastomersM.F. Bukhina, S.K. Kurlyand, CRC Press, 2007, trang 15 - 17
(vtp-vlab-caosuviet)
Cao su kỹ thuật - Phễu hút tem nhãn bao bì
Cao su kỹ thuật - Phễu hút tem nhãn bao bì

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Các phương pháp xác định nhiệt độ chuyển thủy tinh (phần 2)


Xem phần 1 tại đây
Các phương pháp xác định Tg đơn giản và dễ dàng nhất dựa trên việc đo các tính chất cơ học của polymer do chúng thay đổi đáng kể khi đi từ trạng thái giống cao su sang trạng thái thủy tinh. Các phương pháp cơ học được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu chuyển thủy tinh của vật liệu đàn hồi vì chúng có thể đo ở cả trạng thái thủy tinh và trạng thái giống cao su trong vùng chuyển tiếp. Đối với những polymer khác, các phương pháp này ít phù hợp hơn. Một trong những tính chất cơ học của polymer được sử dụng để xác định Tg là sự biến dạng.
Phương pháp xác định Tg này dựa trên việc đo sự phụ thuộc vào nhiệt độ của sự biến dạng ε dưới tải cho trước P = const. Nhiệt độ mà tại đó sự biến dạng bắt đầu tăng rõ rệt được xác định là nhiệt độ chuyển thủy tinh Tg. Hình bên dưới mô tả sự phụ thuộc vào nhiệt độ của sự biến dạng ε dưới tải cho trước. Trong đó, I là vùng trạng thái thủy tinh; II là vùng chuyển tiếp; III là vùng phát triển hoàn toàn biến dạng giống cao su (đoạn bằng phẳng) và IV là vùng chảy nhớt.
Ngoài ra, dưới tải nhỏ, sự biến dạng của mẫu thử nghiệm ở trạng thái thủy tinh không phụ thuộc vào nhiệt độ. Vì vậy, nhiệt độ chuyển thủy tinh có thể được lấy là nhiệt độ cao nhất mà không có sự biến dạng mẫu. Một mẫu thử nghiệm có thể chịu tải ở trạng thái thủy tinh, sau đó được gia nhiệt và chịu tải ở mỗi nhiệt độ nghiên cứu. Độ chính xác cao hơn nếu Tg được xác định như là nhiệt độ mà tại đó sự kéo dài đoạn tuyến tính của đường cong ε theo T trong vùng chuyển thủy tinh giao cắt với trục nhiệt độ. Thỉnh thoảng, Tg được xác định là điểm uốn của đường cong trong vùng chuyển thủy tinh. Phương pháp này được sử dụng thành công cho nhiều kiểu biến dạng khác nhau - kéo, nén, trượt, xoắn (phương pháp Gehman), hỗn hợp (phương pháp Clash-Berg).
Tham khảo từ tài liệu Low-Temperature Behaviour of ElastomersM.F. Bukhina, S.K. Kurlyand, CRC Press, 2007, trang 15 - 17
(vtp-vlab-caosuviet)
Vietrubber - Đệm cao su làm kín cửa bồn ủ men
Vietrubber - Đệm cao su làm kín cửa bồn ủ men
O-ring bằng silicone chịu nhiệt
O-ring bằng silicone chịu nhiệt

Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012

Minh bạch - một lối sống tương lai


Rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống cần minh bạch.
Minh bạch với người và với mình.
Tuy nhiên, minh bạch - một định nghĩa không biết phải giới hạn ở đâu.
Ở một cuộc sống không an toàn, lúc đầu người ta giấu nơi mình sống, sau đó lại giấu luôn ý nghĩ. Cuối cùng là giấu hành động. Vòng sau lại giấu ý nghĩ...
Xã hội đã luôn làm cho con người sợ hãi. 




Đánh cắp
Xã hội luôn bị đánh cắp. Ai đó cần phải giữ những gì mình có. Thế là che giấu.
Sự mất cắp được thể hiện nhiều cách khác nhau. Thậm chí, có cách dễ thương. "Người lấy",  lấy một cách đáng yêu. Nhưng một thời gian sau đó, người bị đánh mất mới cảm nhận được sự tổn thương. Sự việc xảy ra vì lẽ sự yêu thương và không yêu thương không có ranh giới. Có yêu và không yêu nhưng không ranh giới.



Bắt chước
Đó là một việc làm bình thường.  Không bình thường khi nó vượt qua ranh giới. Bắt chước một phong cách, thậm chí một giọng hát làm mất đi sự khác biệt của chủ nhân. Khi ấy, sinh ra một điều gì không ổn.
Bắt chước là thể hiện sự yếu kém, nhưng đa số thường không xem sự bắt chước là sự đánh mất mình.
Sự bắt chước không song hành với khát vọng đi tìm khác biệt. Bắt chước là một ngã rẽ. Khi có thói quen nhái lại một sở hữu của người khác, mình không còn cơ may thể hiện sáng tạo. 

Chuẩn mực
Một xã hội có quá nhiều nền tảng được thừa nhận.  Cũng vì có quá nhiều nền tảng, được xem như là đạo đức, nên điều gì không thích hợp đều bị che giấu. Sự có mặt của cái gọi chuẩn mực, làm cho xuất hiện "điều khác" thành không chuẩn mực. Tiếc thay, điều chuẩn mực lại quá nhiều.
Điều chuẩn mực nhiều bao nhiêu, điều "riêng tư" lại nhiều bấy nhiêu. Vì là không giống xã hội, nên điều riêng tư thường không được thừa nhận.
Phải chăng, sự tái lập cân bằng luôn là công việc siêu hình của phi con người và lại rất là con người. Vì vậy, chẳng đâu là chuẩn mực.















Cần sự can đảm
Đôi khi sự minh bạch là điều không tưởng, mặc dầu bản chất cuộc sống khởi nguồn từ minh bạch. Khi sự khép kín là ứng xử tự nhiên, thì sự minh bạch lại là thứ  lạ thường. Sống minh bạch mới là sống tự nhiên, nhưng khi cần sống minh bạch, lại cần có sự can đảm. Suy đi, tính lại để rồi sẽ ... ứng xử không minh bạch.

Minh bạch trong kinh doanh
Trong sản xuất kinh doanh, sự minh bạch lại được thách thức. Minh bạch với khách hàng, với xã hội và với mình. Đôi lúc suy  nghĩ cho rằng sự minh bạch sẽ làm cho bất an. Đôi lúc lo lắng sự minh bạch sẽ làm cho trắng tay. Nhưng điều quan trọng hơn, sự phô bày như là một cách làm cho mình không nắm giữ thứ gì. Một khi không sở hữu thứ gì, đó là lúc tiếp xúc với mọi cơ hội từ bên ngoài. Lúc đó, nhiều điều được sinh ra từ bên trong sâu thẳm của mình.


Mơ ước sự minh bạch
Thực chất, sự minh bạch với người là chính là với mình.
Sự minh bạch luôn là mơ ước như là mơ thành Phật.
Sự minh bạch ở sát bên nhưng vẫn là mãi mãi không với tay tới...

nguyentuonglinh
15/12/2011

Phễu hút cấp thiếc máy in
Phễu hút cấp thiếc máy in
Thanh cao su nitrile
Thanh cao su nitrile

Thứ Hai, 24 tháng 9, 2012

Fluoroelastomers Handbook: The Definitive User's Guide and Databook


Sách này của nhà xuất bản William Andrew, được viết bởi tác giả Albert L. Moore. Sách được xuất bản vào năm 2006, dày 373 trang.
Fluoroelastomers được tạo từ copolymer của vinylidene fluoride và hexafluoropropylene; hoặc terpolymer có chứa thêm tetrafluoroethylene được thương mại vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960. Trong những năm 1970, với những cải tiến về thành phần monomer, chất kết mạng, tính kháng nhiệt và lưu chất của fluoroelastomer tốt hơn rất nhiều so với các vật liệu đàn hồi khác. Các đệm làm kín và các chi tiết khác được làm từ fluoroelastomer được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như hàng không, ô tô, công nghiệp dầu và hóa chất vì độ tin cậy, an toàn và khả năng bảo vệ môi trường của chúng.
Mục đích của sách là biên soạn, tổng hợp  các kiến thức hóa học và vật lý về fluoroelastomers thông qua mô tả quá trình polymer hóa và sản xuất fluoroelastomers, gia công và kết mạng thành sản phẩm và những ứng dụng quan trọng. Ngoài ra, sách cũng nhấn mạnh các kỹ thuật được sử dụng hiện tại và các hướng phát triển quan trọng trong tương tai. Phần đầu của sách là tổng quan về fluoroelastomers, bao gồm mô tả bản chất của fluoroelastomers, tính chất của các thành phần khác nhau, lịch sử phát triển và những ứng dụng chính. Phần hai giới thiệu chi tiết hơn về các kỹ thuật liên quan đến fluoroelastomer, bao gồm các tính chất và tổng hợp monomer, các quy trình sản xuất và polymer hóa, các hệ kết mạng và các phương pháp gia công. Phần cuối cùng đề cập tính kháng lưu chất của các họ fluoroelastomer khác nhau và những ứng dụng chính của chúng.
Content
Part I. Fluoroelastomers Overview
Part II. Fluoroelastomers Technology
Part III. Environmental Resistance and Applications of Fluoroelastomers
Ngoài việc cung cấp các kiến thức, thông tin, sách cũng giới thiệu nhiều nguồn, tài liệu tham khảo cho người đọc làm việc trong lĩnh vực fluoroelastomer. Sách cũng có ích cho sinh viên và người dùng các sản phẩm fluoroelastomer.
Tham khảo từ tài liệu Fluoroelastomers Handbook: The Definitive User's Guide and DatabookAlbert L. Moore, William Andrew, 2006 và trang web www.amazon.com
(vtp-vlab-caosuviet)
Dây cuaroa có răng kéo dây điện
Dây cuaroa  có răng kéo dây điện
Ống corona bằng silicone
Ống corona bằng silicone

Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2012

Vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo (thermoplastic elastomers)

Đệm teplon chống mài mòn
Đệm teplon chống mài mòn
Vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo là các vật liệu có những liên kết ngang chuyển hóa thuận nghịch theo nhiệt độ, có thể được gia công như nhựa nhiệt dẻo (bởi quá trình nung nóng chảy) và chúng cũng thể hiện tính đàn hồi tương tự như vật liệu đàn hồi truyền thống (được kết mạng hóa học). Hầu hết các vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo (TPEs) là các hệ phân tách pha, ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ. Luôn luôn, một pha là cứng và rắn ở nhiệt độ môi trường trong khi pha còn lại có tính đàn hồi. Thông thường, các pha được liên kết hóa học bởi quá trình block hoặc graft polymer hóa. Tuy nhiên trong một số trường hợp, sự phân tán mịn của các pha là đủ. Pha cứng tạo nên độ bền cho TPEs và đại diện cho các liên kết ngang vật lý. Không có nó, pha đàn hồi sẽ chảy tự do dưới ứng suất và polymer không sử dụng được. Ngược lại, pha đàn hồi tạo nên tính uốn dẻo và tính đàn hồi cho TPEs. Khi pha cứng được nung nóng chảy hoặc hòa tan trong dung môi, vật liệu có thể chảy và gia công bằng các phương pháp thông thường. Khi làm nguội hoặc bay hơi dung môi, pha cứng đóng rắn và vật liệu lấy lại độ bền và tính đàn hồi của nó.
Các polymer riêng biệt cấu thành nên các pha tương ứng, giữ lại hầu hết những đặc tính của chúng. Vì vậy, mỗi pha này thể hiện nhiệt độ chuyển thủy tinh (Tg) hoặc nhiệt độ nóng chảy tinh thể (Tm) riêng biệt của chúng. Tại hai nhiệt độ này, các vật liệu đàn hồi riêng biệt trải qua các trạng thái chuyển tiếp trong tính chất vật lý của chúng. Hình bên dưới minh họa cho sự thay đổi mô-đun uốn cong của TPE tiêu biểu trên một khoảng nhiệt độ rộng.
Vùng 1 - Ở nhiệt độ rất thấp, dưới sự chuyển thủy tinh của pha đàn hồi, cả hai pha đều cứng, vì vậy vật liệu cứng và giòn.
Vùng 2 - Trên nhiệt độ Tg của pha đàn hồi nên pha đàn hồi mềm và vật liệu có tính đàn hồi, giống như cao su lưu hóa truyền thống.
Vùng 3 - Khi nhiệt độ tăng, mô-đun của vật liệu tương đối ổn định (vùng này được gọi là “vùng bằng phẳng cao su”) cho tới điểm mà pha cứng mềm hoặc nóng chảy. Tại điểm này vật liệu trở thành lưu chất nhớt.
Rõ ràng, ta thấy rằng dãy nhiệt độ sử dụng thực tế của TPEs nằm giữa Tg của pha đàn hồi (nhiệt độ sử dụng thực tế ở mức thấp) và Tg hoặc Tm của pha cứng (nhiệt độ sử dụng thực tế ở mức cao).
Tham khảo từ tài liệu Handbook of Thermoplastic ElastomersJiri George Drobny, William Andrew, 2007, trang 2 – 3
(vtp-vlab-caosuviet)
Vietrubber - Rouleau kéo mây
Vietrubber - Rouleau kéo mây

Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2012

Tính chất các loại fluoroelastomer thông dụng


Các copolymer VDF
Gasket có gờ nối ống bằng cao su viton
Các copolymer của VDF và HFP ở tỷ lệ mol khoảng 80/20 tạo nên họ fluoroelastomer có lượng dùng cao nhất. Chúng được kết mạng bằng các bisphenol và có khoảng nhiệt độ sử dụng từ -18oC tới 250oC. Những dipolymer này đặc biệt hữu dụng cho đệm làm kín o-ring do tính kháng biến dạng nén tốt. Trong các terpolymer, TFE có thể được sử dụng để thay thế một phần VDF, để đạt tính kháng lưu chất tốt hơn nhưng đổi lại là sự giảm tính uốn dẻo ở nhiệt độ thấp.
Các copolymer đặc biệt với các monomer chính VDF, PMVE, và TFE có tính uốn dẻo ở nhiệt độ thấp tốt hơn họ HFP ở trên. Các monomer có vị trí kết mạng phải được kết hợp vào để kết mạng hiệu quả những polymer này bằng các hệ kết mạng gốc tự do. Các sản phẩm tạo thành có tính năng làm kín tốt xuống tới khoảng -40oC.
Nhìn chung, các fluoroelastomer được tạo thành từ VDF có tính kháng với một dãy rộng lưu chất, đặc biệt là dầu nóng. Vì bản chất phân cực của các đơn vị VDF, các polymer này có tính trương nở cao trong các ester và ketone có khối lượng phân tử thấp. Ngoài ra, các hợp chất được kết mạng bằng bisphenol có hàm lượng các oxyt và hydroxyt kim loại vô cơ tương đối cao, vì vậy chúng trương nở trong các lưu chất chứa nước nóng. Các hợp chất được kết mạng bằng peroxide có tính kháng tốt hơn với những môi trường nước nóng này. Các bazơ vô cơ mạnh và các amine hữu cơ ở nhiệt độ cao cũng tấn công các polymer được tạo thành từ VDF.
Các copolymer TFE/Olefin
Vì tính nhạy của các fluoroelastomer được tạo thành từ VDF đối với sự tấn công bởi các lưu chất và bazơ phân cực, các vật liệu đàn hồi không phân cực được tạo thành từ TFE và các olefin đã được phát triển. Sản phẩm chính là dipolymer của TFE và propylene. Mặc dù khó gia công và kết mạng, polymer này được sử dụng khá nhiều trong dây điện và dây cáp, trong lĩnh vực dầu, và một vài ứng dụng làm kín động cơ. Các dipolymer TFE/P có nhiệt độ chuyển thủy tinh gần 0oC, vì vậy tính uốn dẻo hơi kém ở nhiệt độ thấp. Ngoài ra, tính trương nở của chúng trong các hydrocarbon là cao vì thành phần flo của chúng thấp. Các terpolymer chứa thêm VDF có thành phần flo cao hơn, tính uốn dẻo ở nhiệt độ thấp tốt hơn, đặc tính gia công tốt hơn nhưng đổi lại là sự giảm tính kháng bazơ.
Terpolymer của ethylen, TFE, và PMVE, với các vị trí cho phép kết mạng peroxide, có tính kháng bazơ rất tốt và các đặc tính ở nhiệt độ thấp trung bình. Ethylene cũng được kết hợp để thay thế một phần VDF trong terapolymer với các monomer chính E/VDF/HFP/TFE, kết mạng bằng peroxide. Polymer tạo thành có tính kháng cao với bazơ và các amine, được đề nghị sử dụng trong các đệm làm kín dầu cho hệ thống truyền động ô tô.
Tham khảo từ tài liệu Fluoroelastomers Handbook: The Definitive User's Guide and DatabookAlbert L. Moore, William Andrew, 2006, trang 6 – 7
(vtp-vlab-caosuviet)
Hình ảnh cao su kỹ thuật - Gasket nối ống bằng viton
Hình ảnh cao su kỹ thuật - Gasket nối ống bằng viton

Bọt urethane dẻo đúc khuôn

Thanh PU đế dập dao cắt
Thanh PU đế dập dao cắt
Bọt urethane dẻo đúc khuôn được sử dụng để sản xuất các sản phẩm có hình dạng phức tạp, như chỗ ngồi trong ô tô, chỗ ngồi trẻ em, gối tựa đầu, đệm giảm rung động cho ô tô, cái lót tay, nệm cho đồ gỗ, và nệm ngủ bởi quy trình đúc khuôn nóng hoặc quy trình đúc khuôn nguội. Bọt dẻo đúc khuôn nóng được tạo thành từ các triol polyether với các nhóm OH bậc hai cuối mạch và khối lượng phân tử từ 3000 tới 3500. Bọt đúc khuôn nguội được tạo thành từ các triol polyether với các nhóm OH bậc một cuối mạch. Phân bố khối lượng riêng của bọt đúc khuôn gồm bọt da bên ngoài có khối lượng riêng cao và bọt lõi bên trong có khối lượng riêng thấp.
Trong quy trình đúc khuôn, hỗn hợp tạo bọt từ đầu trộn được rót vào trong khuôn đã gia nhiệt được làm từ nhôm, thép, hoặc nhựa epoxy. Hỗn hợp chảy và lan rộng trong khuôn. Bọt đúc khuôn được giữ ở nhiệt độ kết mạng yêu cầu trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó là lấy khỏi khuôn. Bọt đúc khuôn nóng được sản xuất bằng cách sử dụng công thức bao gồm các polyol polyether truyền thống (ví dụ, triol oxypropylene ba chức có khối lượng phân tử 3000g/mol) với TDI 80/20, chất tạo bọt nước, xúc tác amine + thiếc, chất hoạt động bề mặt. Bọt được kết mạng trong khuôn ở 187 oC, 40 phút, không kết mạng lại. Trong khi đó đối với bọt urethane dẻo đúc khuôn nguội, hầu hết thành phần polyisocyanate sử dụng là hỗn hợp của TDI và MDI. Bọt được tạo thành ở nhiệt độ khuôn thấp (60 tới 70 oC) với thời gian trong khuôn khoảng 10 phút, sau đó được kết mạng tiếp tục trong lò riêng hoặc ở nhiệt độ phòng.
Bọt đúc khuôn có những hạn chế nhất định do chi phí sản xuất tương đối cao, không thể sản xuất liên tục.
Tham khảo từ tài liệu Polyurethane and Related FoamsKaneyoshi Ashida, CRC - Taylor & Francis, 2006, trang 74 - 77
(vtp-vlab-caosuviet)
Hình ảnh cao su kỹ thuật - Bánh xe forklift bằng PU
Hình ảnh cao su kỹ thuật - Bánh xe forklift bằng PU

Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012

Các phương pháp xác định nhiệt độ chuyển thủy tinh (phần 1)


Phép đo sự giãn nở. Phép đo thể tích hoặc kích thước tuyến tính là phương pháp truyền thống và tin cậy để phát hiện sự chuyển thủy tinh của vật liệu đàn hồi, được đề nghị bởi Wood và Bekkedahl khi được áp dụng cho cao su thiên nhiên. Giá trị Tg được xác định ở nhiệt độ tương ứng với điểm giao của các đoạn tuyến tính của đường cong mô tả sự thay đổi thể tích hoặc kích thước tuyến tính của một mẫu thử nghiệm vật liệu đàn hồi khi thay đổi nhiệt độ. Hình bên dưới mô tả sự phụ thuộc vào nhiệt độ của sự thay đổi kích thước tuyến tính Δl cho cao su đã lưu hóa với thành phần 1.4-cis-polybutadiene 92% (1), 96% (2), vận tốc làm lạnh v = 5oC/phút.
Giá trị Tg là nhiệt độ mà tại đó hệ số giãn nở nhiệt khối (β) hoặc hệ số giãn nở nhiệt dài (α) trải qua một thay đổi bước nhảy. Giá trị của Tg được xác định trong phương pháp này phụ thuộc vào vận tốc thay đổi nhiệt độ.
Đệm teplon chống mài mòn
Đệm teplon chống mài mòn
Phép đo nhiệt lượng. Hệ số góc của đường cong nhiệt hàm-nhiệt độ cũng thay đổi ở Tg, vì vậy một bước nhảy của nhiệt dung riêng (ΔCp) cũng quan sát được khi chuyển từ trạng thái thủy tinh sang trạng thái giống cao su. Bước nhảy của nhiệt dung riêng ở trạng thái chuyển thủy tinh có thể thấy trên giản đồ nhiệt được ghi nhận bởi nhiệt lượng kế quét (DCS). Giá trị của Tg được xác định bằng phương pháp này cũng phụ thuộc vào tốc độ làm lạnh và gia nhiệt. Hình dạng và độ rộng của bước nhảy nhiệt dung riêng ở Tg cũng đặc trưng cho các tính chất của vật liệu đàn hồi trong vùng chuyển thủy tinh.
Ngoài ra, các phương pháp khác như:
Phép đo các tính chất điện: sự thay đổi độ dẫn điện riêng theo nhiệt độ cũng có thể phục vụ như một phương pháp xác định Tg.
Phát quang nhiệt phóng xạ (Radiothermoluminescence): đo mật độ phát quang trong khi gia nhiệt polymer được chiếu xạ ở trạng thái thủy tinh và ghi nhận sự thay đổi khi chuyển sang trạng thái giống cao su, hiệu quả cho các vật liệu đàn hồi ít phân cực.
Cộng hưởng từ hạt nhân (Nuclear magnetic resonance): ghi lại sự thay đổi chuyển động của các đoạn chuỗi trong vùng chuyển thủy tinh.
Cộng hưởng thuận từ electron (Electron paramagnetic resonance): xác định Tg dựa trên sự thay đổi chuyển động của các gốc tự do được đánh dấu khi chuyển tiếp polymer từ trạng thái thủy tinh sang trạng thái giống cao su.
Sắc ký (Chromatography): dựa trên sự thay đổi của các đặc trưng khuếch tán của polymer khi chuyển tiếp từ trạng thái thủy tinh thành trạng thái giống cao su.
Tham khảo từ tài liệu Low-Temperature Behaviour of ElastomersM.F. Bukhina, S.K. Kurlyand, CRC Press, 2007, trang 11 - 15
(vtp-vlab-caosuviet)
Vietrubber - Con lăn cao su tổng hợp
Vietrubber - Con lăn cao su tổng hợp

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Ảnh hưởng của cấu trúc polyol lên sự kết mạng polyurethane

Con lăn PU đè gỗ
Con lăn PU đè gỗ
Kết mạng trong polyurethane làm giảm chuyển động, uốn dẻo phân tử dẫn đến tăng độ cứng, mô-đun đàn hồi và giảm độ giãn dài, sự trương nở trong dung môi. Mức độ kết mạng phụ thuộc trước hết vào số nhóm chức của polyol và khối lượng phân tử chuỗi ở giữa các điểm phân nhánh.
Số nhóm chức của polyol (số nhóm hydroxyl/phân tử), có ảnh hưởng mạnh lên độ cứng của polyurethane tạo thành. Cụ thể, các polyol có khối lượng phân tử cao với số nhóm chức thấp (f = 2-3 nhóm OH/phân tử), mật độ kết mạng thấp dẫn đến tạo thành các polyurethane uốn dẻo, đàn hồi. Ngược lại, các polyol có khối lượng phân tử thấp với số nhóm chức cao (f = 3-8 nhóm OH/phân tử) tạo thành các polyurethane cứng có mật độ kết mạng cao hơn. Ví dụ, bọt PU dẻo có tính chịu tải thấp và tính hồi phục cao; bọt polyurethane cứng có tính chịu tải cao với điểm chảy xác định và tính hồi phục thấp.
Đối với bọt polyurethane cứng, số nhóm chức polyol có ảnh hưởng lớn lên độ bền ép nén và độ bền kéo. Độ bền ép nén tăng nếu số nhóm chức tăng nhưng ngược lại độ bền kéo giảm. Ngoài ra, nếu số nhóm chức của polyol tăng, tính dễ vỡ vụn của bọt PU cũng tăng lên. Bọt cứng có mật độ kết mạng cao, như bọt isocyanuric hoặc bọt urethane-isocyanuric, có tính vỡ vụn cao. Sự ổn định kích thước của bọt PU cứng cũng được cải thiện đáng kể khi dùng các polyol có số nhóm chức cao.
Độ chuyển hóa tại điểm gel trong quy trình tạo thành polyurethane phụ thuộc lớn vào số nhóm chức trung bình của hệ phản ứng. Số nhóm chức thấp hơn tạo nên độ chuyển hóa cao hơn tại điểm gel và ngược lại. Vì vậy, đa số những tính chất tốt nhất của bọt PU cứng không đạt được ở các polyol có số nhóm chức rất cao (ví dụ f = 7-8 nhóm OH/ phân tử), mà ở số nhóm chức trung bình ( f =  4.5 – 5.5 nhóm OH/phân tử).
Tham khảo từ tài liệu Chemistry and Technology of Polyols for PolyurethanesMihail Ionescu, iSmithers Rapra Press, 2005, trang 542 – 547
(vtp-vlab-caosuviet)
Hình ảnh cao su kỹ thuật - Con lăn PU đè gỗ
Hình ảnh cao su kỹ thuật - Con lăn PU đè gỗ

TIẾT KIỆM

Nhiều và ít
Thêm một chút muối cũng là dư
Bớt một chút đường cũng là thiếu
Mưa ngập đường không còn lối về cũng là ít
Thêm một ánh mắt giận dỗi cũng là quá nhiều.

Thời gian vô tận đâu phải nhiều
Và vì thế, tiết kiệm thời gian là  tăng thêm thứ khác
Và vì thế, kiệm lời là dồn ý tưởng cho một lần có thể.

Tiết kiệm cái này là tăng cái kia
Tiết kiệm cái này là giảm cái kia  
Và như thế, "cái khác" luôn không là cái khác.

Tối thiểu đã làm hỏng tình yêu
Tối đa đã làm cho thô thiển
Ngọt trong mặn và mặn trong ngọt không là như nhau.

Thiếu dư thừa, gió không làm nên bão táp
Thiếu câu thừa, không làm nên  giận dữ
Nhưng - Lạnh vừa đủ làm mùa thu thêm ấm.

Chừng đó thôi nhưng rượu này uống được
Chừng đó thôi, ánh mắt này đủ nhớ
Chừng đó thôi, một chút nắng bên thềm.

Và không biết đâu nhiều đâu ít
Chẳng biết đâu phải  là lúc để dành
Dồn hết vốn cũng là lần tiết kiệm.

Sống thực sống cũng là lần tiết kiệm.

nguyentuonglinh
     10/9/2012

Con lăn PU truyền độngVan cánh bướm đóng xả đường ống