Nhiều
phương pháp đã được thử nghiệm để cải thiện tính chất của hỗn hợp NR/EPDM trong
những năm qua. Điểm chung của những phương pháp này là tìm cách tăng vận tốc kết
mạng của EPDM, hoặc bằng cách biến tính EPDM để nó có khả năng phản ứng hơn với
các chất kết mạng, hoặc bằng cách dùng các chất kết mạng có khả năng phản ứng
cao với EPDM.
Trong
các hỗn hợp NR/EPDM nên dùng các loại EPDM thương mại kết mạng bằng lưu huỳnh,
vì mức không bão hòa của chúng cao hơn các loại thường. Tuy nhiên, thậm chí các
loại EPDM “không bão hòa rất cao” cũng có mức không bão hòa ít hơn NR.
Trong
các thử nghiệm, có một phương pháp biến tính EPDM được chú ý vì nó đơn giản, có
thể thực hiện dễ dàng trong máy trộn kín. Trong đó, ba chất cho lưu huỳnh
thương mại, bisalkylphenoldisulphide (BAPD), dithiodicaprolactam (DTDC)
và dithiodimorpholine (DTDM), đã được sử dụng để biến tính EPDM bằng cách cán
trộn ở nhiệt độ cao trong máy trộn kín. Cơ chế như sau: các nhóm alkylphenol
monosulphide, caprolactam hoặc morpholino trong các chất cho lưu huỳnh trên
liên kết vào EPDM thông qua liên kết lưu huỳnh. Trong quá trình lưu hóa, hoặc một
phần, hoặc tất cả, các nhóm trên bị thay thế bởi 2-mercaptobenzothiazole (MBT),
tạo thành một chất trung gian lưu hóa. Điều này giúp hình thành vị trí kết mạng
trên chuỗi polymer EPDM, giúp tăng vận tốc kết mạng.
Ngoài
ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ hỗn hợp NR:EPDM = 60:40 là tối ưu về
chi phí và tính năng, hỗn hợp NR/EPDM vẫn thể hiện được tính kháng ozone tốt.
Khi dùng EPDM ít hơn, tính kháng ozone, oxy hóa của hỗn hợp bị giảm nhiều.
Tham khảo từ tài liệu
Blends of Natural Rubber: Novel Techniques
for Blending with Specialty Polymers, Andrew J. Tinker và
Kevin P. Jones, Springer, 1998, trang 170 – 173
(vtp-vlab-caosuviet)