Nhóm
vật liệu đàn hồi nitrile dùng một lượng lớn chất hóa dẻo tổng hợp đặc biệt. Về
cơ bản, chất hóa dẻo thêm vào giúp gia công NBR dễ dàng và tạo tính uốn dẻo cho
sản phẩm. Vì NBR có tính phân cực cao, phải chú ý dùng các chất hóa dẻo glycol
ether ester phân cực để đạt được hiệu quả hóa dẻo tối đa, tính tương thích tốt,
ít bị tách ra. Việc sử dụng chất hóa dẻo phụ thuộc nhiều vào hàm lượng ACN của
cao su nitrile và ứng dụng cụ thể.
Các
loại NBR với hàm lượng ACN 40% hoặc cao hơn có thể dùng một mức cao (35–40 phr)
các chất hóa dẻo glycol ether ester như DBEEA, DBES, và DBEEF. NBR với hàm lượng
ACN trung bình (30%–38%) có thể dùng các glycol ether ester với mức thấp hơn
(25 phr), các diester thường như DIDP và DOA, các glycol ester mạch thẳng
TEG-2EH, TEG-CC cũng được dùng phổ biến. NBR có hàm lượng ACN từ 18%–28% sẽ dùng
glycol ether ester ít hơn hoặc các loại DOP, DINP chi phí thấp được sử dụng ở mức
12-20 phr.
Để
hạn chế sự tách ra của chất hóa dẻo bởi tác động của môi trường, có thể dùng mức
tương đối thấp (5–12 phr) chất hóa dẻo polymer có độ nhớt trung bình cao tới
cao. Độ nhớt cao tương ứng với khối lượng phân tử cao và khuynh hướng chất hóa
dẻo di trú ra bề mặt và tách ra rất thấp. Ngoài ra, chất hóa dẻo polymer khối
lượng phân tử cao (độ nhớt cao) có tính kháng lão hóa nhiệt tốt nhất, trong khi
các loại có khối lượng phân tử thấp được sử dụng để cải thiện tính chất ở nhiệt
độ thấp, có tính kháng lão hóa kém nhất. Đối với các ứng dụng nhiệt độ thấp
(LT), một số chất hóa dẻo glycol ester mạch thẳng (TEG-CC, TEG-2EH, TEG-C9,
...) có tác dụng rất hiệu quả.
Tham khảo từ tài liệu
Handbook of Specialty Elastomers, Robert
C. Klingender, CRC Press, 2008, trang 401 - 402
(vtp-vlab-caosuviet)