Con lăn PU đè gỗ |
Các lực liên kết yếu, phụ giữa các chuỗi
polymer (lực hút giữa các phân tử polymer) đóng một vai trò quan trọng trong
tính chất của polymer cứng, chúng tăng khả năng kháng cơ học, nhiệt, hóa chất và
điện. Các lực phụ này gồm: lực Van der Waals (khoảng 0.5-2 kcal/mol), liên kết
hydro (khoảng 3-7 kcal/mol), lực phân tán London, lực tương tác phân cực (1.5-3
kcal/mol), và các tương tác liên kết ion (10-20 kcal/mol). Tất cả những lực này
tổng hợp thành năng lượng liên kết tích lũy. Mạch PU được tạo thành chủ yếu từ
mạch polyol, vì thế bản chất của các chuỗi polyol có một tác động lớn lên các
tính chất cơ lý của PU tạo thành, vì các đơn vị lặp lại chứa các nhóm chức khác
nhau sẽ có năng lượng liên kết liên phân tử khác
nhau.
Năng lượng liên kết mạnh hơn, dẫn đến các
tính chất cơ lý cao hơn. Trong polyurethane, sự đóng góp chính cho năng lượng
liên kết các phân tử là do các tương tác liên kết urethane và urea và do các
vòng thơm của isocyanate. Các nhóm này đều có trong vật liệu PU, mạch polyol
càng ngắn thì mật độ các nhóm này càng cao. Sự khác biệt ở đây là các nhóm
ester, ether, hydrocarbon tùy thuộc vào loại polyol được sử dụng tạo PU.
Năng
lượng liên kết tương đối của polyol được sắp xếp theo thứ tự sau: polyester
polyol > polyether polyol > polyhydrocarbon
polyol.
Thứ tự này giải thích cho việc phần lớn các tính chất cơ
lý của polyurethane loại polyester polyol là tốt hơn các polyurethane tương tự
có nguồn gốc từ polyether polyol hoặc từ polyhydrocarbon polyol.
Tham khảo từ tài liệu Chemistry and Technology of Polyols for
Polyurethanes, Mihail Ionescu, iSmithers Rapra Press, 2005, trang 538 –
540
(vtp-vlab-caosuviet)
Rouleau PU máy bào bốn mặt |