Lô đè máy chà nhám thùng |
Để đạt được tính kháng các lưu
chất phân cực, bazơ tốt hơn các fluoroelastomer loại VDF/HFP/TFE, VDF/PMVE/TFE,
và đạt được tính uốn dẻo ở nhiệt độ thấp, tính kháng với các hydrocarbon tốt hơn
loại TFE/P, copolymer (ETP) của ethylene với TFE và PMVE đã được phát triển. Sự
kết hợp các monomer này với thành phần khoảng 10-40% mol đơn vị ethylene, 20-40%
mol đơn vị PMVE và 32-60% mol đơn vị TFE tạo thành vật liệu đàn hồi. Hàm lượng
ethylen cao hơn hay hàm lượng PMVE thấp hơn đều dẫn đến việc tăng Tg và sự kết
tinh.
Khả năng kháng các lưu chất
phân cực, bazơ của ETP tốt hơn có thể được giải thích như sau. Do khuynh hướng
xen kẽ mạnh của các olefin với các monomer perfluorinate hóa trong quá trình
polymer hóa, ethylene như các đơn vị cô lập giữa các đơn vị TFE hoặc PMVE. Hình
vẽ bên dưới minh họa loại GFLT (fluoroelastomer loại VDF/TFE/PMVE) và ETP có
cùng hàm lượng fluor (67%), hàm lượng các thành phần khác cũng bằng
nhau.
Trong GFLT, các chuỗi đơn vị
VDF liền kề nhau chuyển thành các đôi E-TFE trong ETP dẫn đến tính kháng với các
dung môi phân cực, bazơ hoặc amine cao hơn nhiều và Tg cao hơn khoảng
10oC.
Các monomer có vị trí kết mạng
khác nhau đã được nghiên cứu cho kết mạng loại ETP. Các sản phẩm thương mại có
các vị trí kết mạng brom cho phép kết mạng peroxide với các chất kế mạng như
triallyl isocyanurate hoặc trimethallyl isocyanurate. Các tính chất cơ học và ổn
định nhiệt của các hợp chất ETP là tương tự như các fluoroelastomer chứa
VDF.
Tham khảo từ tài liệu Fluoroelastomers Handbook: The Definitive User's Guide
and Databook, Albert L. Moore, William Andrew, 2006, trang 20 –
21
(vtp-vlab-caosuviet)
Vietrubber company - Hình ảnh lô trục cao su máy tách củ tỏi |