Vật
liệu đàn hồi polyurethane nhiệt dẻo có độ bền kéo và độ giãn dài tốt. Ngoài ra,
chúng còn kháng rất tốt với sự phát triển vết xé và sự mài mòn. Những tính chất
trên phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ
và độ cứng.
Hầu
hết TPUs thương mại từ diol ester và tính chất cơ học của những loại này là nổi
bật hơn so với TPUs loại ether như poly(oxytetramethylene) diol. TPUs loại
polyether đắt tiền thích hợp hơn cho những ứng dụng cần tính kháng thủy phân, kháng
sự phân hủy bởi vi khuẩn hoặc cải thiện tính uốn dẻo ở nhiệt độ thấp.
Tính
chất cơ học của TPUs bị ảnh hưởng mạnh bởi cấu trúc phân pha. Trong quá trình xử
lý nhiệt, các pha bị trộn lẫn và sự phân pha xảy ra khi làm nguội, tạo thành sản
phẩm. Một vài nghiên cứu cho thấy rằng sự phân pha phụ thuộc vào thời gian. Vì
vậy, để sản phẩm đạt được tính chất tối ưu, quá trình kết mạng tiếp tục (postcure)
được đề nghị thực hiện sau khi tạo thành sản phẩm. Thông thường, sản phẩm được
trữ ở nhiệt độ môi trường trong 2 – 3 tuần. Trong trường hợp cần gấp, thực hiện
postcure trong lò không khí nóng tuần hoàn ở 110oC trong 8 – 16 giờ.
Postcure
tốn nhiều thời gian, nhân công, máy móc nên hầu hết các chi tiết sản xuất không
trải qua postcure. Postcure được dùng chủ yếu trong các ứng dụng cần cải thiện
sự biến dạng dư sau khi nén. Trong một thí nghiệm ép nén, mẫu thí nghiệm bị ép
xuống 25% ở 70oC trong 22 giờ,
giá trị biến dạng dư 60 – 80% khi không postcure và 25 – 50% khi có postcure.
Tham khảo từ tài liệu
Handbook of Thermoplastic Elastomers, Jiri
George Drobny, William Andrew, 2007, trang 219 - 222
(vtp-vlab-caosuviet)