Trong những năm 1970, DuPont đã giới thiệu
vật liệu đàn hồi VDF/PMVE/TFE kết mạng bằng peroxide với các monomer ở vị trí
kết mạng chứa bromine. Các fluoroelastomer VDF/PMVE/TFE tương tự với các nhóm
đầu mạch iodine và các monomer ở vị trí kết mạng chứa bromine hoặc iodine được
phát triển để tạo các đặc tính gia công và kết mạng tốt hơn. Các fluoroelastomer
VDF/PMVE/TFE được kết mạng peroxide có các đặc tính ở nhiệt độ thấp được cải
thiện và tính kháng lưu chất tốt.
Gần đây, các nghiên cứu đã phát triển kết
mạng bisphenol cho fluoroelastomer VDF/PMVE/TFE với monomer chứa vị trí kết mạng
riêng biệt. Monomer chứa vị trí kết mạng, luôn được kết hợp ở các mức 1%-3%, là
2-hydropentafluoropropylene (2H-PFP), CF2=CH–CF3. Đơn vị
monomer được kết hợp vào mạch chính như sau:
Nó dễ bị dehydrofluorinate hóa để hình thành
vị trí không bão hòa.
Vị trí không bão hòa này có khả năng phản ứng cao với sự
cộng ái nhân như các bisphenol. Các vị trí 2H-PFP có khả năng phản ứng hơn các
chuỗi của đơn vị VDF cô lập giữa các đơn vị perfluoromonomer. Các thành phần
khác của công thức kết mạng được chọn để hỗ trợ quá trình kết mạng ở các vị trí
2H-PFP, trong khi giảm tối thiểu các phản ứng liên quan các chuỗi VDF. HF sinh
ra được hấp thụ bởi các zeolite rây phân tử, aluminosilicate kết tinh, và bởi
oxyt kim loại như MgO hoặc CaO. Calcium hydroxide không được sử dụng, vì sự
trung hòa với HF sẽ tạo thành nước, nó hỗ trợ tấn công lên các vị trí VDF. Ngoài
chất độn than đen, chất độn khoáng được phủ silane biến tính có thể được sử dụng
để nâng cao sự kết mạng, như wollastonite được phủ aminosilane (calcium
metasilicate, CaSiO3).
Tham khảo từ tài liệu Fluoroelastomers Handbook: The Definitive User's Guide
and Databook, Albert L. Moore, William Andrew, 2006, trang 89 –
90