Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Bọt polyisocyanurate biến tính polyol polyether

Dây cuaroa răng kéo dây điện
Dây cuaroa răng kéo dây điện
Đặc trưng nổi bật của bọt polyisocyanurate là tính kháng cháy của nó so với bọt urethane. Tính kháng cháy của bọt liên quan tới hàm lượng liên kết isocyanurate (% trimer). Hàm lượng trimer cao hơn, tính dễ cháy của bọt giảm đáng kể nhưng tính dễ vỡ vụn tăng tới mức không chấp nhận được, khối lượng mất hơn 30%. Ngược lại, bọt có hàm lượng trimer thấp, dễ cháy hơn nhưng khối lượng mất đi do tính dễ vỡ vụn giảm.
Tính kháng cháy của bọt tạo từ TDI và diphenylmethane diisocyanate (MDI) có sự khác biệt rõ ràng. Bọt tạo từ MDI ở tỷ số đương lượng cao, thời gian cháy xuyên qua khoảng 2000 giây (khoảng 33 phút). Ngược lại, thời gian cháy xuyên qua của bọt tạo từ prepolymer TDI là khoảng 20 giây ở tất cả tỷ số đương lượng NCO/OH. Các lý do cho tính kháng cháy kém là (a) sự cyclotrimerizate hóa bị làm chậm bởi cản trở hình học của nhóm ortho methyl của TDI và ngoài ra (b) monomer TDI bị phân hủy bởi nhiệt và kích động ngay lập tức sau đó trong không khí, vì nhiệt phân hủy liên kết urethane từ TDI bắt đầu ở khoảng 150oC, cao hơn nhiệt độ bốc cháy vốn có của TDI (132oC). Vì vậy, chỉ MDI dạng polymer được sử dụng để tạo bọt polyisocyanurate.
Tác động của số nhóm chức polyol polyether lên thời gian cháy xuyên qua cũng được nghiên cứu ở các tỷ số đương lượng NCO/OH khác nhau. Các triol polyether được sử dụng, như TG-260 (khối lượng đương lượng OH: 86.7) và glycerol (khối lượng đương lượng OH: 30.7) tạo nên tính kháng cháy tương đối kém hơn các polyol có nhiều nhóm chức hơn với khối lượng đương lượng trong dãy 115 tới 130.
Tham khảo từ tài liệu Polyurethane and Related Foams, Kaneyoshi Ashida, CRC - Taylor & Francis, 2006, trang 104 - 109
(vtp-vlab-caosuviet)
Viet rubber company - Thanh cao su máy vặt lông gà vịt
Viet rubber company - Thanh cao su máy vặt lông gà vịt