Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Sợi aramid

Aramid là các polyamide thơm. Mặc dù công thức hóa học của chúng rất gần với nylon (polyamide no), nhưng việc thay thế mạch carbon no bằng mạch carbon thơm tạo nên sự thay đổi đáng kể trong tính chất của sợi tơ aramid tạo thành.
Sợi tơ aramid đầu tiên là Nomex của  DuPont. Sợi này có  độ dai trung bình, không cháy nên được dùng làm áo chống cháy. Các loại sợi hiện nay như Kevlar (DuPont), Twaron (Akzo Nobel Fibres) là các sợi tơ poly-p-phenylene terephthalamide. Quy trình tổng hợp sợi này như sau: aniline được acetylate hóa và sau đó được nitro hóa để tạo dẫn xuất p-amino (chiếm hơn 90%); sự thủy phân kết hợp với sự khử tạo p-phenylene diamine; trong khi đó terephthalic acid phản ứng với chlorine để tạo thành terephthalic acid chloride. Nó phản ứng với diamine tạo thành aramid.
Vì aramid không nóng chảy nên không thể nung nóng chảy và ép nó qua bộ phận tạo tơ. Vấn đề chính trong sản xuất sợi aramid là lựa chọn đúng dung môi cho cả quá trình polymer hóa và quá trình tạo và xe tơ. Dung môi thích hợp là hệ dung môi trong acid sulphuric. Trong hệ dung môi này, hàm lượng các polymer trong dund dịch đủ cho quá trình tạo tơ và sự định hướng tốt của polymer trong các pha tinh thể lỏng tạo nên độ bền và mô-đun của sợi aramid rất cao, mặc dù số đơn vị lặp lại trong một phân tử aramid trung bình không lớn hơn 100, thấp hơn nhiều so với cellulose, nylon, polyester. Sau khi thực hiện xong phản ứng, dung dịch được ép qua bộ phận tạo tơ chỉ trước khi bể đông tụ. Điều này cho phép polymer định hướng tốt hơn trong dung dịch trước khi đông tụ, khi được chảy qua bộ phận tạo tơ. Các sợi được xe từ các tơ này bền hơn rất nhiều.
Tham khảo từ tài liệu The Application of Textiles in Rubber, David B. Wootton, iSmithers Rapra Publishing, 2001, trang 28 - 30
(vtp-vlab-caosuviet)