Xem
phần 1 tại đây
Tại
Sri Lanka, các trồng trọt thí nghiệm đã được thực hiện tại các vườn thực vật học
ở Heneratgoda và Peradeniya. Các người trồng thí nghiệm không tin rằng Hevea là
sự lựa chọn tốt nhất, nên họ cũng thí nghiệm các loại cây khác như Ficus
elastica, Castilloa và Ceara. Lúc đầu, hai loại cây sau được ưa chuộng vì chúng
sinh trưởng nhanh hơn, sau đó họ chuyển sang các cây Hevea, chúng phát triển chậm
nhưng có hiệu suất thu latex cao hơn. Tới năm 1882, các cây Hevea này bắt đầu
cho hạt, đây cũng là cơ sở cho sự phát triển của các đồn điền cao su ở Ấn Độ
sau này. Tuy nhiên lúc bấy giờ, nhu cầu trồng cao su tư nhân rất thấp do nhiều
người trồng đã bị phá sản do dịch bệnh trên cây cà phê xảy ra vài năm trước, những
người còn lại trồng trà hoặc sang Malaysia trồng lại cà phê. Cho tới những năm
1890, việc trồng cao su ở Sri Lanka mới bắt đầu phát triển.
Tại
vườn thực vật học, tiến sĩ Trimen nghiên cứu quy trình rạch lấy mủ cao su sao
cho có thể thu được lượng latex nhiều nhất có thể từ mỗi cây. Từ nghiên cứu của
mình, ông đã kết luận rằng việc trồng cao su có thể mang lại lợi nhận và cần được
phát triển trong tương lai. Từ đó, ông bắt đầu thuyết phục chính phủ và các nhà
trồng tư nhân về vấn đề này. Năm 1896, ông đã thuyết phục được J. C. Willis
chuyển sang trồng cao su do giá trà xuống thấp và ông cũng nhận được sự hỗ trợ đáng
kể của chính phủ về chương trình trồng trọt này. Từ đây, ngành công nghiệp đồn
điền cao su bắt đầu phát triển thịnh vượng ở Sri Lanka. Diện tích trồng cao su ở
Ceylon tăng nhanh qua các năm: 1990 là 1 000 mẫu (acre), 1905 là 66 000 mẫu,
1910 là 258 000 mẫu, còn năm 1920 là 433 000 mẫu. Trong đó, năm 1899 là năm
đánh dấu sự xuất khẩu thương mại đầu tiên của cao su được trồng ở đồn điền của
quốc gia này.
(còn
tiếp)
Tham
khảo từ sách Tears of the tree, John
Loadman, Oxford University Press, 2005, trang 97 - 99
(vtp-vlab-caosuviet)